Những Loại Trái Cây Xuất Khẩu

Những Loại Trái Cây Xuất Khẩu

Tin tức cập nhật liên quan đến xuất khẩu trái cây

“Nút thắt” xuất khẩu sang Úc Australia là một trong những quốc gia có các quy định về kiểm dịch ngặt nghèo nhất trên thế giới. Nước này đã xây dựng khuôn khổ chính sách về an toàn sinh học nhằm bảo vệ nền nông nghiệp trước những rủi ro do côn trùng có hại xâm nhập và phát tán.

Các loại hàng hóa, đặc biệt là mặt hàng nông sản tươi, để có thể vào được thị trường Australia cần đáp ứng rất nhiều tiêu chuẩn, thậm chí có những tiêu chuẩn còn khắt khe hơn cả một số quốc gia luôn nổi tiếng là khó tính về nhập khẩu hàng hóa, như Nhật Bản, Mỹ và châu Âu (EU). Đối với hàng nông sản Việt Nam, đây rõ ràng là “nút thắt” lớn, trái vải, xoài, thanh long và nhãn muốn thâm nhập được vào “Xứ chuột túi” đều phải được xử lý nghiêm ngặt, đúng kỹ thuật từ giống, canh tác cho tới đóng gói, bảo quản và vận chuyển. Ông Hoàng Luật phân tích nhà chức trách về an toàn vệ sinh thực phẩm của Australia làm việc rất kỹ lưỡng. Sau khi các lô hàng trái cây cập bến, họ thường lựa chọn ngẫu nhiên một số thùng và đem đi kiểm tra vi khuẩn. Tại công đoạn này, toàn bộ số quả trong thùng sẽ bị soi dưới kính hiển vi để tìm xem có côn trùng hay trứng côn trùng nào bám trên vỏ hay không. Nếu chỉ một quả bất kỳ bị phát hiện ra có vi khuẩn, toàn bộ lô hàng đó sẽ bị tiêu hủy. Như vậy, thiệt hại và rủi ro là rất cao.

Nhãn Việt Nam xuất khẩu sang Australia. Nguồn: Bộ Công ThươngMới đây nhất, Thương vụ Việt Nam tại Australia tiết lộ vừa “giải cứu” lô nhãn Việt Nam nhập khẩu lần đầu tiên vào Australia do hàng hóa bị Cơ quan Kiểm dịch Australia tại thành phố Melbourne (bang Victoria) dừng thông quan.

Nguyên nhân là bởi doanh nghiệp đóng gói không đúng quy định, loại thùng đựng sản phẩm có lỗ thông hơi quá lớn (theo quy định các lỗ thông hơi phải được che bằng lưới và kích thước không quá 1,6 mm và độ dày của lưới không nhỏ hơn 0,16 mm hoặc các lỗ thông hơi phải được dán lại), dễ khiến trái cây bị nhiễm bẩn hoặc tái nhiễm sau khi chiếu xạ, gây nguy cơ côn trùng xâm nhập. Ông Hoàng Vy Cao, một doanh nghiệp nhập khẩu trái cây lâu năm tại Sydney, kể công ty của ông là một trong những đơn vị tiên phong nhập trái vải từ Việt Nam sang Australia. Năm 2015, ngay sau khi nắm được thông tin Australia mở cửa cho trái vải Việt Nam, ông Cao đã đặt vấn đề với phía đối tác và tuyển chọn hàng để xuất khẩu sang Australia.

Tuy nhiên, lô vải đầu tiên không xuất khẩu được do sản phẩm không đạt đúng tiêu chuẩn mà phía nước bạn đề ra. Đến lô hàng thứ hai, trái vải xuất khẩu từ Việt Nam sang bị cắt già cuống (Australia yêu cầu vải nhập khẩu cần cắt bỏ hoàn toàn cuống trước khi được đem ra tiêu thụ tại thị trường nội địa).

Công ty của ông Cao đã phải thuê thêm nhân công dành ra ba ngày để cắt từng cái cuống của mỗi trái vải, chi phí để trả thêm cho kho lạnh, nhân công (tiền lương tăng gấp đôi do phải làm việc vào ngày cuối tuần) khiến doanh nghiệp bị đội vốn. Ngoài ra, do thời gian vận chuyển dài, cộng thêm nằm nhà lạnh lâu đã làm cho trái vải ngả màu, chỉ đạt độ tươi được một tuần là hỏng. Rút kinh nghiệm tới lô hàng thứ ba, hai công-ten-nơ vải đã cập bến cảng Australia trót lọt. Nhưng do không nắm rõ quy định, phía doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam để lẫn một số thùng vải còn thừa của chuyến hàng trước (chưa kịp xuất khẩu) vào chung với các thùng hàng mới, dẫn đến tình trạng vải bị lây bệnh làm hỏng cả lô hàng…

Ông Cao cho biết, sau ba lần như vậy, doanh nghiệp của ông quyết định ngừng nhập khẩu trái vải Việt Nam. Cho đến năm 2017, sau rất nhiều cố gắng của cả hai phía, công ty mới chính thức nhập khẩu thành công trái vải Việt Nam và dần trở thành đơn vị phân phối trái vải tươi Việt Nam hàng đầu tại Sydney. Theo ông Cao, số lượng doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng rau-củ-quả do người Việt Nam làm chủ tại Australia rất đông. Các thương gia Việt kiều luôn sẵn sàng ưu tiên lựa chọn nguồn hàng của Việt Nam thay vì nhập khẩu từ các nước láng giềng châu Á như Trung Quốc, Thái Lan hay Malaysia. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng và tiêu chuẩn hàng hóa vẫn là rào cản lớn nhất đối với hàng nông sản có xuất xứ từ Việt Nam. Ông chia sẻ: “Dựa trên kinh nghiệm 18 năm xuất nhập khẩu nông sản, tôi có thể khẳng định các loại trái cây tốt và ngon đến từ các quốc gia châu Á, vốn luôn có lợi thế về giá cả và vụ mùa, hầu hết đều được “thương lái” Australia tranh nhau mua để bán lẻ ra thị trường. Nếu sản phẩm nông sản có mẫu mã xấu hơn một chút thì dựa trên các mối quan hệ bạn hàng, chúng tôi bán giá thấp đi một chút vẫn có thể tiêu thụ và có lãi. Vì vậy, câu chuyện vẫn là vấn đề chất lượng hàng nông sản của Việt Nam.” Đánh giá trên một khía cạnh khác, ông Hoàng Luật cho rằng quy mô xuất khẩu và chi phí vận chuyển cũng là một khó khăn cần lưu tâm. Ông nói: “Các chi phí làm hàng xuất khẩu ở Việt Nam đang khá cao, cả những chi phí chính thức và không chính thức.” Ngành logistics Việt Nam hiện chưa phát triển tương xứng với tốc độ phát triển thương mại, trong khi đó vai trò của các hiệp hội ngành nghề không rõ nét. Do quy mô liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ, khó tập hợp đủ lượng đơn hàng lớn trong thời gian ngắn, cộng với  tính chất “tươi” khó bảo quản nên trái cây Việt Nam xuất khẩu thường được vận chuyển theo từng lô nhỏ bằng đường hàng không khiến giá thành bị đội lên rất nhiều. Bà Anna Le, Giám đốc Công ty Thương mại và Xuất nhập khẩu Green Path Australia – Đơn vị đầu tiên đưa thành công trái nhãn Việt Nam vào Australia, đồng ý với quan điểm cho rằng sử dụng phương tiện vận chuyển là máy bay thay vì đường biển thường có chi phí cao hơn rất nhiều.

Tuy nhiên, theo bà Anna, trong giai đoạn đầu thăm dò thị trường, doanh nghiệp cần phải chú trọng vào chất lượng sản phẩm hơn là tìm cách giảm giá thành. Xuất khẩu được trái cây Việt Nam thành công vào thị trường Australia là một điều đáng mừng vì đối với doanh nghiệp nó được coi như chứng chỉ đo lường chất lượng để doanh nghiệp yên tâm xuất khẩu đi các thị trường khác trên toàn thế giới. Trong thời gian tới, hàng nông sản của Việt Nam, trong đó có sản phẩm trái cây tươi, muốn mở rộng thị trường tiêu thụ tại Australia đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần nâng cao hơn nữa chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật; tuân thủ quy định kiểm dịch của Australia về vùng trồng, cơ sở đóng gói, chiếu xạ, bao bì, nhãn mác, kiểm tra dư lượng thuốc trừ sâu ngay từ Việt Nam… Ông Trịnh Đức Hải, Tổng lãnh sự Việt Nam tại bang New South Wales, khẳng định sẵn sàng hỗ trợ và tạo điều kiện để trở thành cầu nối giữa các doanh nghiệp Australia và Việt Nam.

Ông Hải nói: “Ngoài việc trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu thị trường Australia, chúng tôi thông qua hiệp hội, các cơ quan chức năng và bạn bè Australia sẽ đẩy mạnh hơn nữa việc tìm hiểu nhu cầu và tiềm năng của thị trường nước bạn, cố gắng cung cấp thông tin dài hạn chiến lược, những thông tin liên quan đến tình hình sản xuất và kinh doanh nông sản để giúp các doanh nghiệp Việt Nam xác định đúng hướng đi, hiểu rõ làm cách nào để có thể vào được thị trường rất khó tính này.” Bộ trưởng David Littlepround gợi ý các cơ quan chuyên môn của Việt Nam và Australia cần phối hợp với nhau tìm hiểu và đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về an toàn sinh học, qua đó mở rộng cửa giao thương trong nông nghiệp – lĩnh vực mà hai nước còn nhiều tiềm năng hợp tác. Ông Littlepround nói: “Trong hơn 45 năm qua, Việt Nam và Australia luôn có quan hệ tốt đẹp, chúng ta hãy tiếp tục làm sâu sắc hơn tình hữu nghị đặc biệt này để giúp nền nông nghiệp hai nước cùng lớn mạnh”./